Thiếu vitamin D có thể làm tăng nguy cơ tử vong sớm.

Thiếu vitamin D có thể làm tăng nguy cơ tử vong sớm.Thiếu vitamin D có thể làm tăng nguy cơ tử vong sớm.Chia sẻ trên PinterestMột nghiên cứu gần đây đã tìm thấy thêm bằng chứng chứng minh quan hệ nhân quả mối quan hệ giữa thiếu vitamin D và tăng nguy cơ tử vong. Morsa Images/Getty Images

  • Vitamin D là chất dinh dưỡng hòa tan trong chất béo mà cơ thể cần để duy trì sức khỏe của xương và chức năng của hệ thống miễn dịch.
  • Các nghiên cứu trước đây gợi ý rằng vitamin D cũng có thể giúp giảm viêm và nguy cơ mắc một số tình trạng sức khỏe. Một số nghiên cứu cũng chỉ ra mối liên hệ giữa mức vitamin D thấp với nguy cơ tử vong cao hơn.
  • Nghiên cứu gần đây của Đại học Nam Úc đã tìm thấy bằng chứng chứng minh mối quan hệ nhân quả giữa thiếu vitamin D và sinh non. tử vong.
  • Các tác giả nghiên cứu cho biết những phát hiện này nhấn mạnh sự cần thiết phải phát triển các chiến lược hiệu quả để ngăn ngừa sự thiếu hụt vitamin D trong toàn bộ dân số.

Còn được gọi là “vitamin ánh nắng”, vitamin D là một loại vitamin tan trong chất béo mà cơ thể sản xuất khi tiếp xúc với ánh nắng mặt trời. Nó cũng có trong một số loại thực phẩm phổ biến.

Vitamin D có một số chức năng trong cơ thể. Ví dụ, nó giúp điều chỉnh canxi và phốt pho cho sức khỏe của xương, giảm viêm và hỗ trợ hệ thống miễn dịch.

Hơn nữa, vitamin D có thể có những lợi ích sức khỏe khác, bao gồm giảm nguy cơ mắc một số tình trạng sức khỏe như tim mạch bệnh tim mạch (CVD) và bệnh đa xơ cứng (MS).

Nhưng không hấp thụ đủ vitamin D thông qua hấp thụ ánh nắng mặt trời hoặc ăn kiêng có thể dẫn đến thiếu vitamin D, điều này có thể tác động tiêu cực đến sức khỏe.

Ví dụ: một phân tích tổng hợp năm 2017 đã tìm thấy mối liên hệ giữa mức vitamin D thấp và nguy cơ tử vong do mọi nguyên nhân. Ngoài ra, trong một nghiên cứu năm 2021, các nhà nghiên cứu đã tìm thấy bằng chứng di truyền cho thấy mối quan hệ nhân quả giữa mức vitamin D thấp và tỷ lệ tử vong.

Gần đây, một nghiên cứu di truyền mới của Đại học Nam Úc được công bố trên tạp chí Annals of Internal Medicine tìm thấy thêm bằng chứng ủng hộ mối quan hệ nhân quả giữa thiếu vitamin D và tỷ lệ tử vong gia tăng.

Cụ thể, các nhà nghiên cứu ước tính rằng tỷ lệ tử vong do mọi nguyên nhân tăng 25% đối với những người có nồng độ vitamin D trong huyết thanh là 25nmol/L so với những người có nồng độ trong huyết thanh là 50nmol/L.

p>

“Chúng tôi đã tìm thấy bằng chứng về tỷ lệ tử vong cao ở những người thiếu vitamin D và bằng cách tăng lượng vitamin D ở những người này, chúng ta có thể giảm nguy cơ tử vong,” tác giả nghiên cứu Elina Hypponen, Tiến sĩ, giáo sư Đại học Nam Úc và giám đốc của Trung tâm Sức khỏe Chính xác Úc, nói với Healthline.

Thiếu vitamin D là gì?

Mặc dù vẫn còn nhiều tranh cãi, nhưng các chuyên gia thường định nghĩa thiếu vitamin D là huyết thanh 25(OH) D ở mức dưới 30nmol/L. Nồng độ vitamin D trong khoảng 30–49nmol/L được coi là không đủ.

Tuy nhiên, bằng chứng khác cho thấy thiếu vitamin D được định nghĩa là nồng độ 25(OH)D trong huyết thanh dưới 50nmol/L — và nghiêm trọng Tình trạng thiếu vitamin D xảy ra khi nồng độ trong huyết thanh giảm xuống dưới 30nmol/L.

Các tác giả nghiên cứu lưu ý rằng các ước tính gần đây cho thấy có tới 50% dân số có thể bị thiếu vitamin D — tùy thuộc vào vị trí địa lý và đặc điểm dân số.

Khám phá tình trạng Vitamin D và nguy cơ tử vong

Nhóm nghiên cứu đã tuyển dụng 307.601 người tham gia từ Ngân hàng sinh học Vương quốc Anh để kiểm tra mối liên hệ giữa vitamin D và nguy cơ tử vong. Những người tham gia ở độ tuổi từ 37–73 vào thời điểm tuyển dụng và tất cả đều có nguồn gốc từ người châu Âu da trắng.

Sau đó, họ thu thập dữ liệu di truyền của người tham gia và các phép đo huyết thanh 25-hydroxyvitamin D 25( OH)D.

Sau 14 năm theo dõi, các nhà khoa học cũng ghi nhận tỷ lệ tử vong do mọi nguyên nhân và tử vong do các bệnh cụ thể, bao gồm:

  • bệnh tim mạch
  • ung thư

  • bệnh đường hô hấp

Khi nghiên cứu kết thúc, các nhà khoa học đã ghi nhận 18.700 trường hợp tử vong trong số những người tham gia.

Sử dụng phân tích ngẫu nhiên Mendel phi tuyến tính, các nhà nghiên cứu phát hiện ra rằng nguy cơ tử vong giảm đáng kể khi tăng nồng độ vitamin D — nhưng mối liên hệ đó không còn nữa khi nồng độ trong huyết thanh đạt 50nmol/L.

Các nhà khoa học cũng phát hiện ra rằng nồng độ 25(OH)D dưới mức dự đoán về mặt di truyền 25 nmol/L có mối liên hệ chặt chẽ nhất với việc tăng nguy cơ tử vong.

Hơn nữa, các nhà nghiên cứu đã quan sát thấy mối liên hệ tương tự khi họ phân tích các trường hợp tử vong do ung thư, bệnh tim mạch và bệnh hô hấp.

“ Trong nghiên cứu này, chúng tôi đã tìm thấy bằng chứng về lợi ích đối với tất cả các nguyên nhân tử vong chính, bao gồm bệnh tim mạch, ung thư và tử vong liên quan đến bệnh hô hấp,” Hypponen nói.

“Tuy nhiên, trong hầu hết các trường hợp, bất kỳ lợi ích của việc tăng mức vitamin D chỉ giới hạn ở những người có nồng độ rất thấp.”

Ngoài ra, Hypponen cho biết nghiên cứu này là nghiên cứu đầu tiên cho thấy tỷ lệ tử vong liên quan đến các bệnh về đường hô hấp giảm.

“[Thật] an toàn khi nói đây là nghiên cứu toàn diện nhất để cung cấp bằng chứng về vai trò của vitamin D trong việc ngăn ngừa tử vong sớm,” cô nói thêm.

Theo các tác giả nghiên cứu, những người tham gia là những người không hút thuốc, hoạt động thể chất và sống ở các khu vực phía nam có nồng độ vitamin D cao hơn. Những người có chỉ số khối cơ thể thấp hơn và ít gặp khó khăn về kinh tế xã hội cũng có nồng độ cao hơn.

Tại sao nồng độ vitamin D lại ảnh hưởng đến nguy cơ tử vong?

Nghiên cứu di truyền trước đây của Hypponen và đồng nghiệp của cô, Tiến sĩ Ang Zhou, đã phát hiện ra mối liên hệ giữa tình trạng thiếu vitamin D và protein phản ứng C cao hơn — một dấu ấn sinh học gây viêm trong máu.

“Nó có thể là tình trạng viêm thấp hơn có thể giúp giải thích một phần những phát hiện này; tuy nhiên, cũng có nhiều cơ chế khác,” Hypponen nói.

“Điều quan trọng cần nhớ là vitamin D là một tiền hormone, có các thụ thể khắp cơ thể, bao gồm hầu hết các cơ quan chính. Nếu chúng ta cho phép nồng độ hormone này xuống rất thấp, thì có thể nhiều hệ thống bị gián đoạn, dẫn đến [sự] gia tăng tình trạng suy nhược tổng thể và như kết quả của chúng tôi cho thấy, gia tăng tỷ lệ tử vong sớm”.

Những hạn chế trong nghiên cứu về vitamin D

Mặc dù nghiên cứu sử dụng một số lượng lớn người tham gia nhưng tất cả đều là những người có nguồn gốc châu Âu da trắng.

Vì vậy, vẫn chưa rõ liệu những kết quả này có ảnh hưởng đến các cá nhân thuộc các nhóm chủng tộc hoặc dân tộc khác hay không.

Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu cũng bao gồm các phân tích độ nhạy cảm đối với các nhóm dân tộc không phải da trắng trong phân tích.

Vì lý do này, các nhà khoa học cho rằng kết quả nghiên cứu có thể tương tự bên ngoài dân tộc da trắng.

Bạn nên kiểm tra mức vitamin D bao lâu một lần?

Dr . Janice Johnston, giám đốc y tế và đồng sáng lập của Redirect Health, nói với Healthline rằng các chuyên gia chăm sóc sức khỏe không phải lúc nào cũng yêu cầu kiểm tra định kỳ mức vitamin D, điều này có thể là do các công ty bảo hiểm không chi trả cho việc kiểm tra tổng quát.

“Nếu bạn có một số tình trạng [sức khỏe] nhất định hoặc có các yếu tố nguy cơ thiếu vitamin D, bạn nên yêu cầu bác sĩ hoặc [chuyên gia] chăm sóc sức khỏe của mình chỉ định xét nghiệm,” cô nói.

“Đối với những người trưởng thành đã được phát hiện thiếu vitamin D, có thể nên xét nghiệm máu để theo dõi nồng độ trong máu 3 tháng sau khi bắt đầu điều trị.”

Bạn cần bao nhiêu vitamin D?

Xác định lượng vitamin D mà một người cần là một thách thức, vì nó phụ thuộc vào các yếu tố như mức độ tiếp xúc với ánh nắng mặt trời và thời gian trong năm.

Theo Viện Y tế Quốc gia (NIH), lượng vitamin D trung bình được khuyến nghị cho người trưởng thành khỏe mạnh là 600 Đơn vị Quốc tế (IU) mỗi ngày. Người lớn từ 71 tuổi trở lên nên cố gắng cung cấp 800 IU mỗi ngày.

Hơn nữa, Hướng dẫn thực hành lâm sàng của Hiệp hội Nội tiết năm 2011 đề xuất rằng phương pháp điều trị cho người lớn thiếu vitamin D là 50.000 IU vitamin D2 hoặc vitamin D3 mỗi tuần một lần trong tám tuần hoặc 6000 IU vitamin D2 hoặc vitamin D3 hàng ngày.

Sau đó, khi mức 25(OH)D đã đủ, liều duy trì khuyến nghị là 1500–2000 IU mỗi ngày.

Nhưng quá nhiều vitamin D cũng có thể gây hại cho sức khỏe.

“Tôi sẽ thận trọng khi sử dụng liều cao hoặc phương pháp 'tiêm nhanh' vì trong nhiều trường hợp, chúng cho thấy kém hiệu quả hơn so với việc bổ sung vitamin D liều vừa phải thông thường để đạt được lợi ích sức khỏe mong muốn chứ không chỉ mức vitamin D càng cao,” Hypponen nói.

Làm thế nào để tăng mức vitamin D

Johnston gợi ý rằng ăn nhiều thực phẩm có chứa vitamin D và nhận được nhiều ánh sáng mặt trời hơn có thể giúp tăng mức vitamin D nếu bạn đang thiếu.

Các nguồn thực phẩm cung cấp vitamin D được khuyến nghị bao gồm:

  • cá hồi
  • lòng đỏ trứng
  • các sản phẩm từ sữa được bổ sung vitamin D
  • li>

“Ngoài ra, đi bộ hàng ngày ngoài trời nắng cũng sẽ hữu ích trong việc điều trị tình trạng thiếu vitamin D — nhưng đừng quên thoa kem chống nắng,” Johnston nói.

“Nếu bạn được phát hiện thiếu vitamin D, [chuyên gia chăm sóc sức khỏe của bạn có thể] khuyên bạn nên bổ sung vitamin D.”

Bài học rút ra

Vitamin D có nhiều chức năng quan trọng trong cơ thể và các nghiên cứu gợi ý rằng những người bị thiếu vitamin D có thể có nguy cơ mắc một số tình trạng sức khỏe cao hơn.

Một số nghiên cứu cũng đã tìm thấy mối liên hệ giữa mức vitamin D thấp và tỷ lệ tử vong.

Kết quả của nghiên cứu mới cung cấp thêm bằng chứng để chứng minh rằng việc duy trì mức vitamin D đầy đủ có thể rất quan trọng để ngăn ngừa tử vong sớm từ mọi nguyên nhân.

“Theo tôi, điều quan trọng nhất là chúng tôi tìm ra một chiến lược hiệu quả để đảm bảo tất cả đều có lượng dự trữ vitamin D ít nhất ở mức tối thiểu,” Hypponen nói.

“Ở cấp độ dân số, phòng ngừa là chìa khóa. Trong môi trường lâm sàng, việc theo dõi và điều trị tình trạng thiếu vitamin D cũng có thể hữu ích.”

Share

Sức khỏe